Hồi mười tuổi, lúc được giao bài tập về nhà đề "Tả ba của em", chị Dịu phải chạy tuốt lên xóm trên ngồi cả buổi ở nhà chú Năm bán bánh mì, cựu đại ca xã hội đen lúc nào làm bánh cũng bỏ thêm ít thịt cho má con nhà chị, để dòm người ta. Bài văn được Sáu điểm. Cô giáo phê hết nửa trang giấy, trong đó có câu đại ý: "Không có ông ba nào dạy cho con chửi thề hết trơn!". Thằng Tèo đọc xong bài chị tả "ông ba", cười như được mùa, nói mày tả ba gì bặm trợn xa lạ ghê, ba người ta âu yếm mua bánh cho con rồi dạy con tập xe đạp chở con đi lên rừng xuống biển không hà. Chị Dịu trố mắt hỏi thiệt hả thiệt hả, có ba ngầu quá ta.
Lúc má thông báo trong bụng có đứa nhỏ bé bằng hạt đậu, ông ngoại chị Dịu cầm cái chén ném thẳng vào đầu đứa con gái. Vết sẹo trên trán tới giờ má vẫn thường lấy tóc phủ kín, còn những cuộc trò chuyện giữa ông ngoại với má thì mất hẳn. Mỗi lần chị Dịu đọc to một bài thơ nào đó trong sách về "ba của em", má đều cầm cái đài phát thanh vặn tiếng hết cỡ tới lúc giọng đứa con gái khò khè mới tắt. Không ai ở gần chị Dịu đả động đến chữ "cha". Thậm chí bà ngoại - người mỗi tháng ghé thăm một lần để dấm dúi cọc tiền quá nửa là tiền lẻ cho má - cũng không bao giờ nhắc.
Năm tuổi, chị Dịu được má dắt đi chùa. Từ lúc gà chưa gáy, má đã tất bật soạn đồ. Bộ đầm chị diện lên chùa được má tỉ mỉ từng sợi chỉ từ cả tuần trước. Chị được bế từ khoảng giữa cổng chào cao muốn đụng bầu trời đến điện thờ chính vì mếu máo lèo nhèo chuyện đôi chân muốn gãy. Mùi nhang xộc vào mũi cay xè mắt làm chị cứ dụi mãi. Chỗ trưng cây kiểng có người đàn ông mặc áo cà sa nom trẻ trung đang tưới cây. Má bồng chị đứng yên đó, sau lưng người ta, suốt một tiếng đồng hồ. Mà mớ cây kiểng vẫn cứ được tưới nước, tỉa cành.
Năm lớp Sáu lần đầu giành được giải học sinh giỏi Văn cấp tỉnh, chị Dịu chạy hụt hơi lên ngôi chùa năm nào để gặp vị trụ trì trẻ ấy. Từ cổng đến điện thờ chị Dịu chạy đã không còn mỏi chân, mà người mặc áo cà sa năm nào vẫn nhất quyết đứng chăm cây lúc đụng mặt y hệt năm chị bé xíu xiu. Lần đó không có mùi nhang nào xộc vào mũi mà mắt chị cũng cay.
Lúc chị sắp lên xe hoa, chị nhờ người quen tới chùa loan tin con gái bà Hòa sắp lấy chồng. Hôm làm lễ cứ nửa giây chị nhìn ra cửa một lần, tới lúc tiệc tàn.
Má không bao giờ ghé chùa từ sau cái ngày hồi chị năm tuổi dù mỗi rằm trên bàn thờ Phật vẫn chiễm chệ dĩa trái cây tươi rói. Còn chị đã không còn khái niệm chùa chiềng sau ngày lấy chồng.
Năm tròn sáu mươi, người má cắm đầy dây nhợ. Đầu má lưa thưa vài sợi tóc, chị cứ vuốt đi vuốt lại. Bà nằm yên trên giường, quay sang chị, luôn miệng: "Con ơi, đừng giận ổng nhen." Cả phòng lặng như tờ, chỉ có tiếng nước mắt má rơi.
Rất nhiều năm sau, lúc chị đang ngồi đọc bài văn "Tả ba em" được điểm mười của cô con gái, có người hớt hải xộc vào nhà bảo lên chùa gấp.
Trong phòng treo đầy mấy bức thư pháp có chữ "từ, bi, hỷ, xả". Người đàn ông năm nào giờ héo mòn vì bệnh tật. Ông dùng bàn tay nhăn nheo vươn ra trước mặt chị, khẽ khàng: "Con ơi, con bỏ qua cho ba nha."
Chị Dịu may đồ cho người ta từ lúc nào cũng không nhớ nổi. Chuyện nối khúc lụa này với miếng vải kia chị thuộc lòng còn hơn con nít đọc bảng cửu chương. Vậy mà sao chỉ nắm lấy tay người ta thôi, với chị cũng quá khó khăn. Nếu lúc chị năm tuổi mà được nghe câu này, chị sẽ không ngần ngại lao vào lòng người ta. Nếu lúc chị cầm tờ giấy khen học sinh giỏi cấp tỉnh mà người ta chịu xoa đầu khen, chị sẽ cười tươi rói hơn cả mấy chục năm gặp chuyện vui cộng lại. Nếu năm chị đi lấy chồng mà người ta chịu ghé, chị sẽ giả đò giận lẫy chút xíu, rồi lúc ai ai cũng bận chén chú chén anh, rồi chị cũng len lén mở miệng gọi tiếng "ba" mà cả đời không dám nhắc.
Chị Dịu cứ nhìn mặt người đàn ông chị dặn lòng nếu có kiếp sau cũng không gặp lại. Nếp nhăn khóe mắt của ông sâu hoắm như những cánh đồng nứt nẻ trên con đường từ nhà đến chùa. Từ đôi mắt đục ngầu chảy tràn nước mắt, như đê vỡ, như thác nước, như tháng năm không cách nào ngược dòng.
Rồi chị vươn ra, nắm lấy bàn tay run rẩy kia.
Má đặt tên chị là Dịu.